Mô tả
Trước hết xin nhớ, cách bói này cấm trẻ vị thành niên. Luật bắt buộc người xin quẻ phải trên 15 tuổi. Trẻ dưới 15 tuổi coi bói thì quẻ hết linh. Đây là cách bói rắc rối vì phải dựa vào cách tính theo bốc phệ như bát quái, thập can, ngũ hành, tam tài… Dụng cụ bói gồm có một cái dĩa với hai đồng xu (có nơi nói ba đồng xu) để gieo quẻ và phải có sách bói dịch để đối chiếu. Khi gieo quẻ bằng đồng xu phải tuân thủ quy ước “nam tả nữ hữu”. Nữ gieo đồng xu bằng tay phải, nam gieo xu bằng tay trái.
Khác với kiểu bói bình dân lật sách trực tiếp từ quyển Truyện Kiều. Trong cách bói này, người ta phải dùng quyển Bói Kiều làm căn bản. Bói Kiều là sách do các cụ làm luật bói soạn ra. Sách phân loại những cảnh ngộ của cuộc đời nàng Kiều thành 18 chủ đề. Số 18 là hợp số của thập căn (10 gốc) và bát quái (8 thể) mà thành (10+8=18). Bởi vì không phải bất cứ câu thơ nào trong truyện Kiều cũng có thể dùng cho bói toán, nên các cụ lọc ra 270 câu lục bát (54×5=270), tức 540 hàng, ứng với 18 chủ đề. Như vậy số thơ trong sách Bói Kiều chỉ có 1/7 văn bản truyện Kiều.
Theo ông Phạm Đan Quế, tác giả nhiều sách bói Kiều, 18 chủ đề phân loại như sau:
Bát quái
- Càn – Niên vận: cả năm tốt hay xấu.
- Khảm – Công danh: thăng bổ sớm hay muộn.
- Cấn – Tài lộc: tiền của dồi dào hay hao hụt.
- Chấn – Âm tín: muốn hỏi tin tức một ai đó.
- Tốn – Tranh tụng: kiện tụng được hay thua.
- Ly – Bình an: vận nhà bĩ hay thái
- Khôn – Hôn nhân: vợ chồng tốt hay xấu
- Đoài – Thương mại: buôn bán lỗ hay lãi
Thập can
- Giáp – Thiên di: đổi chỗ ở động hay êm
- Ất – Tật bệnh: Bệnh nặng hay nhẹ.
- Bính – Khoa đồ: thi đỗ hay hỏng.
- Đinh – Tử tức: đường con cái ra sao.
- Mậu – Xuất hành: ra đi may hay rủi.
- Kỷ – Truy tầm: tìm kiếm thấy hay mất.
- Canh – Ưu tư: lo sự lành hay dữ.
- Tân – Thám yết: đi thăm có được không.
- Nhâm – Kỹ nghệ: nghề nghiệp lợi hay hại.
- Quý – Tâm sự: tình riêng có toại hay không.
Muốn coi bói, trước hết phải cho biết muốn coi về đường gì, chẳng hạn đường công danh. Sau đó người xin bói cầm hai đồng tiền xu thảy vào dĩa để tìm vị thế trong tam tài. Nếu 2 đồng xu ngửa hết là dương, tức thiên. Nếu cả hai sấp hết là âm, tức địa. Nếu một sấp một ngửa là vừa âm vừa dương, tức nhâm. Sau đó tính toán dựa theo sự kết hợp trong ngũ hành: kim mộc thủy hỏa thổ để tìm ra số mục của quẻ ứng với câu thơ.
Thí dụ: xin một quẻ về đường công danh. Công danh ứng với “khảm”, tức số 2 trên bảng bát quái. Tìm số 2 trên bảng ngũ hành thấy ứng với “mộc”. Sau đó gieo 2 đồng xu. Ví dụ cả 2 xu đều sấp, tức “địa”. Như vậy ta có: khảm mộc địa. Dựa trên 3 cửa trên để dò trên bảng lý số để biết quẻ số mấy. Được số của quẻ rồi ta phải trao cho vị giải quẻ, rồi tùy vào cuộc vấn đáp với vị này ta sẽ có lời giải. Như vậy chỉ những vị giải quẻ chuyên môn mới đủ kiến thức làm việc này.
Cứ nghĩ đến cảnh cụ đồ vuốt râu ngồi bên đống sách chữ Nho, trước mặt là bát nhang khói lên vu vơ, là đã thấy không khí huyền bí của thần linh rồi. Khỏi nói, ai cũng nhận ra cách bói nghiêm túc này ắt do các cụ nhà Nho giỏi ngành bốc phệ lập ra.
Đánh giá
Chưa có đánh giá nào.